Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2013

Không mới cập nhật gian của tiếp nhận.

Phẩm tính phi lý không được nhấn mạnh mà thay thế vào đó là phẩm tính trào phúng: tập sách của Nhà xuất bản Tác phẩm mới có thêm phụ đề “Tập truyện châm biếm”.

Đọc truyện, theo đó, người đọc Đầu tiên được trải nghiệm tiếng cười. Với riêng Nguyễn Hữu Dũng, đấy còn là ý hướng giới thiệu về nền văn học Ba Lan, mà trước Mrożek, là những Henryk Sienkiewicz, Tadeusz Dolega Mostowicz, Helena Mniszek,… Ở góc cạnh thứ hai này, Nguyễn Hữu Dũng san sẻ với dịch giả đến sau là Lê Bá Thự, khi cả hai ông đều là những dịch giả dịch văn học Ba Lan từ nguyên ngữ.

1. Có thể nói, Mrożek đã du hành đến Việt Nam gần nửa thế kỷ. Điều gì đã khiến Mrożek du hành tới Việt Nam chỉ mươi mười lăm năm sau khi ông khẳng định được tăm tiếng của mình ở Ba Lan và châu Âu? Và vì sao lại là truyện ngắn chứ không phải kịch? có nhẽ sự thống nhất trong phong cách trào lộng ở ắt các loại thể mà Mrożek sáng tạo, với tính chất humour đặc trưng, khả năng dùng tiếng nói tinh tế và kỹ thuật giễu nhại điêu luyện, ắt hợp thành một phúng dụ về sự phi lý của cõi đời, kiếp người, mà từng lớp Ba Lan chỉ là một trường hợp, đã đưa tác phẩm của ông vào tầm quan sát của dịch giả Diễm Châu.

Tính cách trào phúng, do đó, giải thích cho việc dễ dàng đính thêm phụ đề “Truyện châm biếm” vào bản dịch  Con voi  , khi nó được hiểu như là một dòng mạch phát triển khá mạnh mẽ trong văn chương Việt Nam truyền thống.

Trong cái nghề trầm mình, đôi khi cũng xảy ra tai nạn chết người. Sławomir Mrożek (1930) được biết đến với nhân cách họa sĩ biếm họa trước khi trở thành kịch tác gia, nhà văn trào lộng Ba Lan nổi tiếng thế giới. Ở Việt Nam, Mrożek lại được biết đến cốt với nhân cách nhà văn viết truyện ngắn trào phúng, ngay từ rất sớm, và cho đến tận hiện thời. Nhưng giữa bối cảnh văn hóa xuất hiện dịch phẩm Mrożek của Nguyễn Hữu Dũng và Lê Bá Thự, dẫu chỉ cách nhau mươi năm, cũng có những đổi thay đáng để ý.

Có thể đọc được hàng loạt các truyện ngắn của Mrożek từ ý kiến này. Tập  50 truyện ngắn Sławomir Mrożek  của Nhà xuất bản văn học cũng có kèm theo phụ đề: “Truyện ngắn, truyện cực ngắn chọn lọc”, trước khi trở về với phụ đề thân thuộc “Tập truyện ngắn” trong lần xuất bản bổ sung của Phương Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

Nó khiến người đọc phải suy nghĩ, chua xót và bõ bèn. Để ngay cả khi, nhiều ít những kinh nghiệm nghệ thuật của Mrożek có thể bị bỏ lỡ hay đã bị vượt qua, thì với nhiều khúc quành trong đời sống dịch thuật văn chương Việt Nam, ông vẫn hiện diện như một chỉ dấu lịch sử để văn chương Việt Nam soi rọi vào chính nó.

Nó có trào phúng nhưng không  hẳn/chỉ  là trào lộng, thậm chí độc lập với chức năng phúng gián. Thậm chí, hình thức “phản ngữ” để cất tiếng trào phúng cũng phần nào lép vế hơn so với các hình thức dùng ngôn ngữ giễu nhại phối hợp với hình tượng nghệ thuật kệch cỡm, lố bịch để tạo hiệu ứng đả kích sâu cay. Với Mrożek, đặc trưng viết ngắn đọng lại ở cái nhìn mang tính phúng dụ về đời sống, về nghệ thuật, làm thành những tác phẩm nhẹ-nhõm-sâu-cay khi cất tiếng cười giữa thế cục.

3. Mrożek viết khoảng 40 vở kịch, đặc biệt với  Tango  (1964), ông đã kiến lập được tên tuổi của mình trong dòng mạch những sáng tạo văn học phi lý vào nửa sau thế kỷ XX.

Đến thời Lê Bá Thự, định ngữ này lại được thay thế để thành “truyện rất ngắn”, một thể loại mới được biết đến ở Việt Nam, như một cộng hưởng để theo đó, hy vọng viết ngắn có thể trở nên loại thể ưu trội trong văn học Việt Nam thế kỷ mới.

Ở đấy, nhận thức sâu sắc cõi đời phi lý, sự giả trá của lòng người, sự lừa gạt của quyền lực, Mrożek cất tiếng cười châm biếm, lật tẩy diện mạo khả ố của kẻ cai trị, đồng thời cất tiếng cười mai mỉa cả nạn nhân của nó, những người hài lòng và/hoặc chịu đựng thỏa hiệp với đời sống tha hóa ấy.

Tiếng cười trong truyện Mrożek, nên chi, dù khôi hài hay mai mỉa hay châm biếm, đều kéo theo ở phía bên kia của nó tiếng khóc. 2. Sự san sẻ giữa hai dịch giả, Có lẽ đều ở khía cạnh giá trị tư tưởng và tài năng nghệ thuật độc đáo của Mrożek.

Nó được bật lên bởi sự lố lỉnh của nhân vật, sự hí hước của các chi tiết thông minh, sự bất thần của các xếp đặt khéo léo. Mrożek cũng thành công với truyện ngắn và tiểu luận, nơi tả nhiều quan điểm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc thế.

5. ” Đó là lời kết của truyện  Nghề tự tận. Ông muốn người ta cất ngôn ngữ từ sự độc lập tự chủ ấy, dù đơn thuần có khi chỉ là một phát hiện giản dị mà không đơn giản: “Tin tức khắc bảo đó là ‘vụ trẫm mình’, còn tôi thì tôi bảo, đó chẳng qua là một vụ tai nạn.

Thêm nữa, bởi với một dịch giả tài năng không chỉ nằm lòng văn học phi lý, thì một Mrożek của  Tango  đến từ Ba Lan từng lớp chủ nghĩa xa xăm (hay từ một nhà văn Ba Lan đang lưu vong tại Pháp), có thể là một dấu chỉ quan yếu cho việc truyền dẫn tới độc giả Việt Nam. Năm 1990, một bản dịch  Con voi  từ nguyên bản tiếng Ba Lan của dịch giả Nguyễn Hữu Dũng cũng được ban bố tại Nhà xuất bản Tác phẩm mới.

4. Bên cạnh tiếng cười trào lộng, có một bộ phận đáng kể những truyện của Mrożek được viết theo một bút pháp khác. Gần đây nhất, tháng 5/2013, tập truyện  Con voi [Tuyển tập 85 truyện ngắn Mrożek]   của dịch giả Lê Bá Thự được Phương Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành, trên cơ sở phát triển từ tập  50 truyện ngắn Sławomir Mrożek  (Nhà xuất bản văn học, 2002).

Rất ít khi đó là tiếng cười hài hước, mà đẵn là tiếng cười mỉa mai, châm biếm. Năm 1969, ở Sài Gòn, dịch giả Diễm Châu đã ban bố bản dịch  Con voi (Słoń  , 1957) tại Nhà xuất bản Trình Bầy, trước cả bản dịch sang tiếng Anh ba năm:  The Elephant  (Greenwood Press, 1972).

Ngoài tính năng sản của tác phẩm Mrożek, sự đổi thay trong kinh nghiệm thẩm mỹ của người Việt Nam cũng làm cho một số vấn đề trong tác phẩm của ông được trội lên ở mặt này hay mặt khác, khi là thuộc tính cách mạng xã hội, khi là hiệu quả nghệ thuật tự sự, khi là phương thức tiếp cận nghệ thuật về con người và từng lớp. Sau Diễm Châu hai mươi năm, bản dịch của Nguyễn Hữu Dũng hình như lại xuất hiện trong một quang cảnh văn hóa khác.

Gọi là viết ngắn để chủ yếu để nhấn mạnh đến thuộc tính giới hạn của tự sự, với sự gọn nhẹ của số lượng ngôn từ và khả năng bao quát ý tưởng, trong việc bao gộp thuộc tính kể việc và nghị sự, mà sự phân tích nhiều khi là bất khả.

Và ở mỗi tuổi, ông đều mang đến cho người đọc Việt Nam ít nhiều những nhận thức và trải nghiệm mới mẻ.

Một lời kết xuất sắc, cho nhiều hơn một chấm dứt truyện. Có thể cầu mong những tác phẩm này như là những  viết ngắn  , còn được định danh bằng các tên gọi khác như truyện cực ngắn (nếu mường tưởng đấy là diễn ngôn truyện kể), là tiểu luận (nếu mường tưởng đấy là các diễn ngôn nghị luận).

Đầu tiên, ở thời kỳ Diễm Châu dịch chuyển, đó thuần tuý chỉ là “truyện” trong sự biện biệt với thơ và kịch. Qua thời Nguyễn Hữu Dũng, loại thể được nhấn mạnh ở khía cạnh nội dung, khi được thêm định ngữ để trở nên “truyện châm biếm”.

Nhưng khi tiếng cười vừa ngưng lại, thì nỗi buồn dóm rồi trào dâng. Truyện của Mrożek quyến rũ người đọc trước nhất ở tính cách trào lộng. Vậy là, cùng một đối tượng, hiện diện ở Việt Nam trong hơn 40 năm, trong những không gian đọc khác nhau, trông về Mrożek đã có những chuyển đổi, theo cùng nhu cầu nhận thức và thưởng thức văn chương.

Mrożek là người bắt bệnh cho tầng lớp Ba Lan hiện đại, ông tin vào sự phản biện, vào sự độc lập trong suy nghĩ.