Đại tá, TS VŨ HỒNG KHANH. Thứ trưởng Ngoại giao Tòa thánh Va-ti-căng Ba-lê-xtre-rô trong chuyến thăm Việt Nam (tháng 2-2012) đã ghi nhận: Chính phủ Việt Nam đang thế thực hành nhất quán và không ngừng hoàn thiện chính sách quý trọng và bảo đảm tự do tôn giáo của người dân. Điều 70 của Hiến pháp nước Cộng hòa tầng lớp chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 được bổ sung rõ hơn: “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, đạo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.
Như vậy, theo quan điểm của Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế, dù rằng là một quyền cơ bản của con người, nhưng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là tuyệt đối, mà là một quyền có giới hạn. Bởi vậy, những kẻ lợi dụng tôn giáo để trục lợi cá nhân chủ nghĩa, thực hành những hành động chống chính quyền, gây mất ổn định trật tự tầng lớp thì phải bị xử lý thỏa đáng.
Nếu kể các hành vi phụng dưỡng cha ông, thành hoàng, vua Hùng… thì hầu hết người Việt có linh tính đạo.
Những ngày lễ của các tôn giáo được tổ chức trọng thể theo đúng nghi tiết tôn giáo, cuốn sự tham gia đông đảo của các giáo đồ với tinh thần nao nức, yên tâm và tin cậy vào chính sách tôn giáo và luật pháp của quốc gia Việt Nam, đồng thời đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
000USD cho công tác nghiên cứu về vấn đề đạo và pháp quyền. Quan hoài đến công tác tôn giáo, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nói chung và đời sống của đồng bào các đạo nói riêng là một trong những nguyên tắc lãnh đạo, quản lý từng lớp và điều hành giang sơn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam năm 1946 đã khẳng định quyền của người dân Việt Nam: “Mọi công dân Việt có quyền tự do tín ngưỡng” (Chương II, mục B).
Song điều quan trọng là, mọi sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam đều diễn ra thường ngày, không gặp bất cứ sự ngăn cản nào. Thành ra, có thể nói việc Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ đã duyệt cái gọi là “Dự luật nhân quyền Việt Nam” (HR 1897) ngày 28-6-2013, do hai nghị viên Đảng Cộng hòa Ét Roi-xơ (Ed Royce) và Cơ-rít Xmit (Chris Smith) đề xướng là một việc làm đáng tiếc, tạo ra sự ảnh hưởng không tốt cho quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ.
Tư tưởng ấy của chủ toạ Hồ Chí Minh được Đảng và quốc gia Việt Nam trình bày trong suốt quá trình lãnh đạo cách mệnh. Ngay trong tuần này, một chủng viện Tin lành đã lần trước nhất được đăng ký tại Việt Nam. 000 người tham dự”. Không ai được lợi dụng đạo để làm trái pháp luật và chính sách của quốc gia”.
Quyền tự do tín ngưỡng, đạo là một trong những quyền căn bản của con người, được ghi nhận tại Điều 18 Tuyên ngôn nhân quyền toàn thế giới năm 1948 và được phát triển đầy đủ hơn trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của liên hiệp quốc. Điều 18, khoản 3 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị nói về quyền tự do tôn giáo đã xác định: “Quyền tự do giãi bày đạo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”.
000. Theo số liệu của Ban đạo Chính phủ (năm 2011), Việt Nam có hơn 25 triệu tín đồ (chiếm hơn 1/4 dân số), trong đó Phật giáo khoảng 10 triệu người, đạo gia tô 6,1 triệu, Cao đài 2,4 triệu, Hòa hảo 1,2 triệu, Tin lành 1,5 triệu và Hồi giáo khoảng 100.
Ngay cả mỏng tình hình tự do đạo quốc tế năm 2012 của Bộ Ngoại giao Mỹ (công bố ngày 20-5-2013), phần đánh giá về Việt Nam cũng phải ghi nhận: “Đã có những dấu hiệu cải thiện, như cấp phép đăng ký cho các giáo đoàn mới, cho phép mở mang các hoạt động từ thiện và cho phép tổ chức các buổi lễ đạo quy mô lớn với trên 100.
QĐND - Ngay sau khi giành được độc lập (1945), chủ toạ Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, vấn đề có tính nguyên tắc trong chính sách tôn giáo của Việt Nam là: “Tín ngưỡng tự do và lương giáo kết đoàn”.
Các số liệu được đưa ra tại cuộc tọa đàm về tự do đạo được Đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ tổ chức ngày 20-6-2013 ở Oa-sinh-tơn cho thấy, nhận thức và hoạt động đạo tại Việt Nam đã có sự đổi thay rất lớn trong vòng 20 năm qua. Chúng ta cũng thẳng thắn dấn rằng, trong những năm qua, hoạt động đạo và công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo vẫn còn một số thiếu sót ở một đôi địa phương, trong một số vụ việc cụ thể.
Các đạo đều bình đẳng trước luật pháp. Có thể kể đến đánh giá của Thượng nghị sĩ Mỹ Gim-oép-bơ (Jim Webb) sau chuyến thăm Việt Nam năm 2009 rằng: Cho dù vẫn còn những ý kiến cá nhân chủ nghĩa về một đôi vụ việc cụ thể, song không thể phủ nhận những tiến bộ về tự do tôn giáo tại Việt Nam, nhất là từ năm 1991 đến nay. Sự giới hạn đó là cần thiết nếu việc thực hành quyền này xâm hại tới an ninh nhà nước, thứ tự từng lớp, sức khỏe cộng đồng hoặc quyền và tự do cơ bản của người khác.
Lần đầu tiên kể từ năm 1975, Chính phủ Việt Nam sẽ tài trợ 150.
Mọi hành vi hoạt động đạo gây hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn tầng lớp, vi phạm đạo đức và các quyền của người khác… đều bị cấm và nghiêm trị theo pháp luật. Cũng tại cuộc tọa đàm này, Tiến sĩ Cơ-rít Xây-plơ, chủ toạ Viện liên hệ toàn cầu (IGE), một tổ chức phi chính phủ Mỹ đang hoạt động tại Việt Nam đã đánh giá cao những tiến triển về tự do đạo tại Việt Nam: “Tại khu vực Tây Bắc, đã có hơn 300 nhà thờ được đăng ký và con số này tại Tây Nguyên là hơn 2000.
Pháp lệnh Tín ngưỡng, đạo ra đời là một minh chứng khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là quý trọng tự do tín ngưỡng, đạo. Rất nhiều tôn giáo có đại diện trong Mặt trận sơn hà và Quốc hội, góp phần củng cố chính sách đại đoàn kết dân tộc. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, đạo được pháp luật bảo hộ. Tự do tín ngưỡng, đạo là một quyền nhân thân căn bản của công dân cũng được đề cập trong Bộ luật Dân sự, được bảo vệ bằng luật pháp và được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật càng ngày càng ở mức độ cao hơn, hoàn thiện hơn.
Thực tế, những chủ trương, chính sách tín ngưỡng, đạo không phải chỉ được khẳng định ở Hiến pháp, luật pháp hay trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng mà được mô tả sinh động trong cuộc sống hằng ngày.
Chúng tôi đồng hành với những gì Chính phủ và nhân dân Việt Nam đang thực hành. Số người theo đạo đã tăng từ 22 triệu lên 25 triệu người trong vòng 2 năm, trong khi số tôn giáo được xác nhận đã tăng từ 6 lên 13 trong vòng 8 năm. Điều 80 Hiến pháp 1980 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Đời sống tôn giáo ở Việt Nam chưa bao giờ sôi động như giờ và đang phát triển theo chiều hướng hăng hái, tạo ra sự ổn định trong tầng lớp. Sau 5 năm thực hiện Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, ngày 19-4-1999 về các hoạt động đạo đã được thay thế bằng Pháp lệnh Tín ngưỡng, đạo do Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI duyệt y ngày 18-6-2004 và chủ toạ nước ký Lệnh ban bố ngày 29-6-2004.
Thế nhưng, về căn bản, lãnh đạo các chức sắc đạo tại Việt Nam và đông đảo những người có lương tri trên thế giới đến thăm Việt Nam đều nhận những thành tựu to lớn của nước ta trên lĩnh vực tôn giáo. Nói cách khác, ở tuốt luốt các nước, các loại hình tổ chức đạo đều được tự do hoạt động nhưng phải trong giới hạn của Hiến pháp và pháp luật.
Nếu không có những quyết định tích cực của Việt Nam thì chúng tôi sẽ không thể hoạt động tại đây”.