Mãi đến mùa hè năm 2011, người ta mới đưa nước về chăn thả tại ngôi làng Töpchin theo một dự án kết hợp cùng Quỹ bảo tồn Thiên nhiên Brandenburg tiến hành
Nhiều người vẫn tin rằng bảo tàng Thiên nhiên nghĩa là để cho hệ động, thực vật bản địa tồn tại biệt lập, không có sự cạnh tranh của các loài ngoại lai hoặc khôi phục nguyên trạng môi trường sống của chúng.
Ông giải thích rằng cảnh quan nơi đây chịu ảnh hưởng của một lượng lớn phân bón từ chẳng khi các phương tiện giao thông và các nhà máy thải ô-xít ni-tơ. Ông Josef Reichholf, nhà động vật học và sinh học tiến hóa của Đại học Kỹ thuật Munich, người từ lâu đã ủng hộ việc đưa những loài ăn cỏ lớn để tăng cường đa dạng sinh vật học ở các cảnh quan có con người sinh sống, cho biết: “Chăn thả ngựa konik và các động vật ăn cỏ lớn khác là phương pháp tốt nhất để bảo tồn tự nhiên ở Đức”.
Những con hà mã này đang được kỳ vọng sẽ giúp bình phục đa dạng sinh vật học ở ngôi làng Töpchin Ông Holger Rössling thuộc Quỹ bảo tàng Thiên nhiên Brandenburg cho biết: “Chúng ta cần trâu để loại bỏ sinh khối, nếu không những khu vực nói trên sẽ mất đi các loài cây đặc hữu và chỉ còn tồn tại các loài phổ biến… Khác với bò, loài trâu chịu đựng giỏi và thích nghi tốt.
Cách Berlin vài cây số về phía tây, Quỹ Heinz Sielmann đã đưa 19 con ngựa Przhevalsky – loài bản địa của Mông Cổ – cùng chung sống với 41 con bò rừng bizon châu Âu ở Döberitzer, nơi trước đây từng là khu huấn luyện quân sự.
Dự án tiếp theo cũng sử dụng động vật ăn cỏ lớn nhằm khôi phục cảnh quan tự nhiên tại một nhà máy xử lý nước thải cũ gần thủ đô Berlin. Thảm thực vật dày đặc cũng tạo ra một vi khí hậu ẩm thấp mát mẻ gây bất lợi cho nhiều loài sâu bọ và loài chim vốn ăn nhập với các sinh cảnh khoáng đãng.
Mục tiêu của dự án là để những con ngựa hoang và bò rừng bizon châu Âu dọn bớt cỏ ở khu vực này, tạo điều kiện cho các loài ưa nhiệt phát triển. 000 năm trước, trâu nước vẫn là loài bản địa ở châu Âu nhưng vì nạn săn bắt nở rộ đã đẩy phạm vi sống của chúng ra xa tới phía đông nam của đất liền.
Ngôi làng Töpchin thuộc bang Brandenburg cách Berlin khoảng 40km là một trong những nơi trước tiên thực hành thể nghiệm và loài ngoại lai được nhập khẩu là hà mã châu Á. 10. Với lợi thế về sức vóc, chúng được kỳ vọng sẽ dễ thích ứng với địa hình mấp mô và ẩm thấp hơn so với những chú bò thường ngày ở Đức.
Ngoài lợi thế về bộ móng guốc khỏe, chúng còn có thể gặm hầu như hết thảy các loài thực vật”. Mấu chốt của việc tái du nhập chính là hội tụ theo dõi tác động của những loài ăn cỏ lớn tới cảnh quan. Sau nhiều thế kỷ được con người sử dụng, phong cảnh đó khi trở về trạng thái thiên nhiên thường sẽ có ít loài hơn, bởi vậy lý do đằng sau rất nhiều kế hoạch bảo tồn ở Đức can hệ đến việc tái nhập khẩu các động vật ăn cỏ ngoại lai.
Hay ở quận Barnim thuộc bang Brandenburg, người ta kết hợp chăn thả ngựa konik – loài ngựa được cho là có cội nguồn từ ngựa hoang châu Âu cổ đại – và các loài gia súc của Anh.
Điều đang xảy ra ở Đức hưởng ứng một thiên hướng được gọi là “tái tạo thiên nhiên” (rewild), một phong trào toàn cầu nhằm mở rộng các khu vực hoang dại trọng yếu, kết nối chúng thông qua các cầu tiêu cho phép con người và động vật cùng tồn tại, song song bảo vệ và tái nhập khẩu các loài động vật ăn thịt hàng đầu.
Cuối năm ngoái, một vài hộ gia đình ở Töpchin còn sản xuất được thịt và xúc xích trâu đem bán.
Nếu sáng kiến “Tái tạo tự nhiên châu Âu” do các nhóm bảo tàng như Quỹ Quốc tế Bảo vệ tự nhiên (WWF) dẫn đầu đặt đích đến năm 2020 “tái tạo thiên nhiên” được 1 triệu héc-ta đất thuộc 10 khu bảo tàng từ Tây Ban Nha tới lưu vực sông Danube và dãy núi Carpathian thì trái lại, các dự án ở Đức lại nhằm hồi phục đa dạng sinh học cho những phong cảnh mà con người đã tác động.
Do đó việc đưa các loài ăn cỏ lớn tới đây là nhằm loại bỏ bớt các loài cây phát triển quá mức, cho phép các loài bản địa hiếm hơn phát triển mạnh.
Họ tin rằng cư dân thành phố Berlin sẽ thích thứ hương vị từ thiên nhiên này… Theo Diễn đàn Đầu tư. Những con vật màu đen sừng được lai tạo giống theo đơn đặt hàng riêng tại Pháp có thể gặm cỏ ở những môi trường ẩm thấp và nghèo dinh dưỡng mà loài bò ở Đức đã chán ngán, bao gồm một số vùng đầm lầy bị đe dọa và khu vực đầm lầy muối còn sót lại.
Khác với khu vực nhiệt đới, đa số đa dạng sinh vật học ở châu Âu không nằm trong các cánh rừng, mà ở khu vực đồng cỏ, đầm lầy và các vùng đất hoang. Chỉ trong thời gian ngắn, rất nhiều dự án na ná như Töpchin đã xuất hiện trên toàn nước Đức. Dự án Töpchin là ví dụ về một khuynh hướng bảo tồn đang phát triển ở châu Âu, dùng các loài động vật ăn cỏ lớn, ngoại lai để làm tăng sự đa dạng của hệ động, thực vật bản địa.
Những dự án bảo tồn như Töpchin lúc đầu cũng bị người dân địa phương hoài nghi như một hình thức chiếm đất hợp pháp, song dần dần, họ đã nhận ra tính hiệu quả của dự án và đồng ý cho hà mã đến gặm cỏ trên đất của mình. Thỉnh thoảng chúng ta phải sáng tạo và linh hoạt hơn trong cách điều chỉnh phong cảnh để duy trì đa dạng sinh vật học.
Điều này khiến các loài không đặc hữu phát triển và từ đó thu hẹp và chung cuộc là triệt tiêu các loài quý hiếm vốn thích nghi với môi trường nghèo dinh dưỡng. Nhưng trong một thế giới bị chi phối bởi con người và môi trường đổi thay nhanh chóng như bây chừ thì mọi thứ đã trở thành phức tạp hơn, chẳng thể lúc nào cũng duy trì một khu vực thuần túy các loài bản địa.