Theo số liệu Bộ Tài chính vừa ban bố, tính từ đầu năm đến ngày 30/6/2013, các DN mai mối kinh doanh xăng dầu đã trích được hơn 2.231,4 tỉ đồng vào quỹ BOG, trong khi mức dùng đã lên tới gần 2.932,4 tỉ đồng. Cộng với số tồn quỹ đầu năm (khoảng 756,383 triệu đồng), tại thời điểm 30/6, Quỹ bình ổn giá xăng dầu dư hơn 55,4 tỉ đồng, giảm hơn 700 tỉ đồng so với cuối năm 2012. Từ hơn 3 năm trở lại đây, việc điều hành giá xăng dầu được thực hành theo các quy định của Nghị định 84/2009/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu, và các văn bản quy phạm pháp luật liên tưởng. Nghị định 84 quy định, xăng dầu được điều hành kinh dinh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, giá xăng dầu trong nước bám sát diễn biến giá xăng dầu thế giới đảm bảo san sớt hài hòa ích giữa quốc gia, DN và người tiêu dùng. Nhiều bất cập từ cơ chế Tuy nhiên, một số chuyên gia đánh giá qua các lần điều chỉnh tăng, giảm giá, việc điều hành giá không đúng với diễn biến của giá thị trường thế giới. Nhiều trường hợp, giá trong nước tăng không kịp với giá thế giới khiến các DN găm hàng, chờ thời điểm có lãi mới bán. Không ít DN đã tìm mọi cách trì hoãn để không bán hàng, như mất điện, bảo trì hệ thống, hỏng máy... Suy cho cùng, đây là chuyện tất nhiên trong hoạt động kinh dinh. Có thể khẳng định, DN kinh dinh xăng dầu găm hàng hay gom hàng là lỗi cơ chế quản lý giá. Theo ông Ngô Trí Long - nguyên Phó viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý giá Bộ Tài chính, cơ chế quản lý giá xăng dầu hiện chưa thích hợp với cơ chế thị trường. Trong cơ chế thị trường, đã Nhà nước định giá thì quốc gia quyết định hoàn toàn. Còn nếu đã trao quyền tự chủ cho DN thì phải để DN toàn quyền tự quyết tăng hoặc giảm giá. Quốc gia chỉ can thiệp bằng các phương tiện điều hành vĩ mô. Sự nửa vời này ở chỗ, chúng ta chưa trao quơ quyền tự chủ cho DN. Trên thế giới, không nước nào cho DN tự định giá nhưng lại phải phê duyệt Nhà nước. Bên cạnh đó, chúng ta đã công bố là điều hành giá xăng dầu theo cơ chế thị trường. Thị trường lên xuống từng ngày, từng giờ. Vậy mà, theo quy định, chúng ta phải đợi đến 30 ngày nhập khẩu mới được tăng, giảm. Đó là điều bất hợp lý. Với khoảng thời kì dài như vậy, DN hoàn toàn có thừa thời gian găm hàng để đạt đích lợi nhuận cao. Trong cơ chế thị trường, chỉ có một trong hai chủ thể có quyền định giá, là quốc gia hoặc thị trường. Nếu thị trường độc quyền thì giá do quốc gia quy định, còn thị trường cạnh tranh thì giá do thị trường quyết định. Tuy nhiên, tại VN, TCty xăng dầu Petrolimex vẫn giữ vị trí thống lĩnh thị trường xăng dầu nội địa với trên 55% thị phần. Tán thành, chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh cho rằng, để xăng dầu theo đúng giá thị trường phải được hình thành nên từ thị trường. Việc trao quyền tự quyết nửa vời cho DN là một trong những nguyên nhân khiến thị trường xăng dầu VN gần như chơi có sự cạnh tranh. Với một thị trường còn mang tính độc quyền, Nhà nước để cho DN tự quyết định giá dù trong biên độ nhỏ, là trái với cơ chế quản lý giá trong nền kinh tế thị trường. Nhưng để xăng dầu được điều hành theo kiểu lưỡng tính như giờ cũng không phải là phương án lâu dài. Xăng dầu là loại hàng có vai trò rất quan yếu trong đời sống xã hội. Chỉ cần một đợt tăng hay giảm nhỏ cũng tác động ngay tới các chỉ số về giá cả cũng như lợi nhuận của DN. Đơn cử, nếu chỉ chậm giảm giá xăng dầu vài ngày là DN đã có thể đút túi hàng nghìn tỉ đồng nên chẳng dại gì giảm giá. Do đó, người tiêu dùng khó có thể hi vọng các DN vì thương mình mà giảm giá. Chỉ có cách tạo ra một thị trường thực sự để DN phải cạnh tranh nhau tồn tại, người dân mới được hưởng lợi từ sự cạnh tranh này. Sửa ra sao? Hiện, 70% lượng xăng dầu được du nhập, 30% còn lại được cung ứng từ nhà máy lọc dầu Dung Quất. Mỗi lít xăng dầu được nhập cảng về bán ra thị trường nội địa người dân phải “gánh” hơn 8.000 đồng do rất nhiều khoản thuế, phí; từ thuế giá trị gia tăng, du nhập, tiêu thụ đặc biệt, môi trường và hoài kinh doanh xăng dầu. Trong khi đó, tổng lượng tiêu thụ xăng trên thị trường VN giờ vào khoảng 1 tỉ lít/tháng. Từ việc lập quỹ bình ổn, mỗi lít xăng phải tăng thêm 300 đồng, mức chiết khấu đối với đại lí cũng là một trong những nguyên nhân đội giá thành. Do lãi nhiều, nên mức chiết khấu mà các DN làm mối xăng dầu trích cho các đại lý lên tới 700-800 đồng/lít xăng bán lẻ. Chính nên, bán được càng nhiều, DN du nhập càng có lãi. Đây chính là lý do khiến các DN đang có cuộc chạy đua ngầm về mức chi hoả hồng chia cho các đại lý từ 200 đồng tăng lên gấp 4 lần như hiện thời. Theo quy định hiện hành, việc tăng giảm giá bán sỉ xăng dầu được thực hành theo biến động của giá thế giới. Cụ thể, giá cơ sở tăng 7%, 12%, DN được tự quyết định giá bán, tăng trên 12% quốc gia can thiệp. Bộ Công Thương cho rằng cần thu hẹp biên độ tăng giảm giá tương ứng xuống mức biến động 3%, 5% và 7% để không tăng giá sốc.
Bộ Công Thương cũng đề xuất phương án khác là quy định con số cụ thể, khi giá cơ sở và giá hiện hành trong nước chênh 500 đồng/lít, DN được tự quyết định giá bán buôn, nếu mức chênh từ 500 - 1.000 đồng/lít thì DN được quyết định giá bán kết hợp với sử dụng quỹ bình ổn. Liên bộ Tài chính - Công Thương chỉ can thiệp khi mức chênh lệch giữa giá bán sỉ và giá cơ sở cao hơn 1.000 đồng/lít. Theo TS Nguyễn Minh Phong, việc thu hẹp biên độ tăng, giảm giá xăng là một tiến bộ vì có tác dụng thu hẹp quyền của DN trong bối cảnh thị trường xăng dầu chưa hoàn toàn cạnh tranh và DN cũng hết thời cơ xé nhỏ các đợt tăng giá như trước đây. Tuy nhiên, việc quy định giá cơ sở như đề xuất của Bộ Tài chính vẫn còn rối, chưa đáp ứng được đề nghị dư luận là minh bạch về giá xăng dầu. Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Công Thương xây dựng nghị định thay thế Nghị định 84 về kinh doanh xăng dầu. Rất nhiều đề xuất được đưa ra từ cả phía cơ quan quản quốc gia, DN và chuyên gia. Liệu khi nào xăng dầu đích thực được vận hành theo cơ chế thị trường? Hay những giải pháp được cho là tình thế vẫn đấu ngự trị? Câu hỏi này chắc khó có thể giải quyết ở một nghị định.
Bá Tú
Giá xăng dầu, thị trường, doanh nghiệp, Điều hành |