>> Một số giải pháp phát triển kinh tế - từng lớp vùng Tây Nguyên (Bài 1)
+ Diện tích cà phê già cỗi lớn. + Năng suất chưa ổn định và chưa đồng đều, chất lượng còn thấp do thu hoạch quả xanh và phơi trên nền đất… + Giá trị gia tăng và giá trị xuất khẩu còn thấp chưa tương xứng + Lượng nước dùng cho canh tác cà phê lớn, môi trường sinh thái ở những nơi trồng cà phê bị thay đổi. + Mực nước ngầm hạ thấp, nước mặt thiếu. + Hệ sinh thái của vùng trồng cà phê không đảm bảo tính đa dạng và vững bền. Trồng cà phê độc canh, ít xen canh. + Khả năng tái canh cà phục tráng cà phê chưa có được giải pháp hữu hiệu. - Các doanh nghiệp thu mua cà phê nhân đang gặp khó khăn. Nhiều doanh nghiệp lớn có nguy cơ vỡ nợ hàng nghìn tỷ đồng, hệ thống tiêu thụ và thị trường cà phê trong nước không ổn định. Hiện đang xuất hiện các công ty, đầu nậu nước ngoài thao túng thị trường cà phê nhân Việt Nam. - Ngành cà phê Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn để có thể tồn tại và phát triển. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên nên ít Chính phủ và đề xuất Chương trình Quốc gia phát triển vững bền cây cà phê. Trong đó lưu ý cả thảy các vấn đề từ đích phát triển, giải pháp kỹ thuật, tài chính, tổ chức sinh sản, qui hoạch, tiêu chuẩn chất lượng, thị trường, chế biến rang xay, cà phê hòa tan… cho phát triển cà phê. 2. Phát triển cây cao su: Tây Nguyên có diện tích cây cao su lớn của nước ta, chỉ đứng sau vùng Đông Nam Bộ. Tuy nhiên, Tây Nguyên còn có tiềm năng lớn để mở mang diện tích trồng cây cao su, ngày nay và tương lai sẽ trở nên một trọng tâm phát triển cây cao su, sinh sản các sản phẩm từ cao su phục vụ phát triển kinh tế - từng lớp. Tuy nhiên để có thể phát triển cao su một cách bền vững, đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất, cần có một số chính sách phát triển phù hợp.
- Ban hành chính sách, quan tâm phát triển xây dựng nhà máy chế biến mủ cao su dạng khô, sản xuất chế biến các sản phẩm tiêu dùng, sản phẩm y tế… từ mủ cao su thiên nhiên. Xử lý môi trường từ việc trồng cho đến chế biến mủ cao su. Gắn việc xây dựng các nhà máy ván sợi với việc qui hoạch trồng, khai thác và thanh lý cây cao su đã hết tuổi khẩn hoang mủ làm nguyên liệu sản xuất gỗ. - Đấu giao cho Tập đoàn Cao su Việt Nam nghiên cứu bộ giống cây cao su cho năng xuất mủ lớn, sản lượng gỗ cao, thời kì khai phá kéo dài và có thể trồng thích nghi được ở một số vùng sinh thái khác nhau. Khuyến khích phát triển diện tích lớn cao su của Tập đoàn cao su Việt Nam tại Tây Nguyên. 3. Phát triển cây chè: Tây Nguyên là một vùng có diện tích chè lớn của cả nước. Các địa phương tập trung nhiều chè ở Tây Nguyên là Lâm Đồng khoảng 30.000 ha; Gia Lai, Kon Tum và Đắk Nông. Vùng Kon Tum mới đây đã phát hiện cây chè cổ thụ hàng trăm tuổi, cần nghiên cứu xem xét nguồn gen, giống chè này. Để sản phẩm của cây chè ngày càng đem lại giá trị kinh tế cao cấp thiết phải thực hành một số việc sau đây: - Nghiên cứu xây dựng qui hoạch phát triển cây chè ở Tây Nguyên. Xác định cây chè có thể đem lại giá trị xuất khẩu hàng tỷ đô la mỗi năm. - Nghiên cứu tái cơ cấu giống chè, mô hình tổ chức sản xuất, chế biến và tiêu thụ chè. - Tăng diện tích trồng các giống chè có khả năng chế biến chè ô long ở những vùng có điều kiện hợp như Bảo Lộc, Lâm Đồng, Đăk Nông, Kon Tum… - Đẩy mạnh việc mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm chè ở nước ngoài. - Ứng dụng các công nghệ sinh sản đương đại từ khâu trồng, coi sóc, bón phân, che bóng, thu hái, chế biến… để bảo đảm có được sản phẩm chất lượng cao. 4. Phát triển cây hồ tiêu: Loại cây này có thế mạnh phát triển ở Tây Nguyên, tuy nhiên có thể phát triển tập hợp lớn ở Gia Lai, Đắk Nông, Đắk Lắk, Lâm Đồng. Duy trì diện tích và Áp dụng các biện pháp kỹ thuật, công nghệ phù hợp, an toàn và bảo vệ môi trường thọ thái trong sản xuất hồ tiêu. Nhất là các kỹ thuật, qui trình công nghệ phòng trừ sâu, bệnh. Một số kết quả của Viện Bảo vệ thực vật và Trường Đại học Nông Lâm Huế về xử lý và phòng trừ bệnh chất nhanh chết chậm cây hồ tiêu cầ được nhân rộng vào sản xuất. Xây dựng thương hiệu cho hồ tiêu Tây Nguyên, khai khẩn, phát triển mạnh thương hiệu hồ tiêu Chư Sê… Cần nghiên cứu lựa chọn loại cọc tiêu hạp để không phá rừng, cây rừng lấy gỗ làm cọc tiêu. 5. Phát triển cây trồng hàng năm: Tây Nguyên có tiềm năng lớn phát triển các cây trồng hàng năm. Cây lúa, cây ngô, cây họ đậu tiếp chuyện duy trì các biện pháp kỹ thuật về giống, kỹ thuật cahn tác xen canh, gối vụ để tiết kiệm nước, phân bón, sức cần lao để có năng xuất, sản lượng và hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, phát triển cây sắn (khoai mỳ) ở Tây Nguyên để sinh sản tinh bột sắn cần có nghiên cứu và biện pháp ăn nhập. Bởi lẽ, phát triển cây sắn và sinh sản tinh bột sắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến độ màu mỡ của đất, ô nhiễm môi trường và tính đa dạng sinh vật trong môi trường. Nên phát triển cây sắn cần quan tâm đến ba vấn đề lớn sau đây: - Phải có giống sắn có năng suất cao. Hiện thời có thể phát triển một số giống như: KM94, KM98… - Cần phải có giải pháp chống xói mòn đất, thoái hóa đất ở những diện tích trồng sắn. Kỹ thuật ở đây có thể trồng xen canh, luân canh, thiết kế nương đồi, kỹ thuật trồng, kỹ thuật làm đất… - Xử lý ô nhiễm môi trường trong các nhà máy chế biến tinh bột sắn: Trên cơ sở tổng kết, đánh giá một số mô hình xử lý ô nhiễm môi trường, bã, nước thải của các nhà máy chế biến tinh bộ sắn để có giải pháp kỹ thuật và công nghệ thích hợp nhất (bây chừ ở Tây Nguyên đã có các mô hình thành công cần nhân rộng). Nghiên cứu tận thu các phế phẩm từ sinh sản tinh bột sắn để sinh sản các sản phẩm hữu dụng khác như thức năn chăn nuôi, sinh sản năng lượng từ biogas, sinh sản phân bón… 6. Phát triển cây dược chất: Cần có nghiên cứu, đánh giá, điều tra tiềm năng các cây dược chất tại Tây Nguyên. Cây sâm Ngọc Linh, cây alipat, chè atiso,…là nguồn gen quí, cần bảo tàng và có thể phát triển sản xuất đại trà làm vật liệu sản xuất dược phẩm. Riêng cây atiso đã trở thành cây trồng chính của Đà Lạt, sâm Ngọc Linh đã được nghiên cứu nhân giống bằng phương pháp vô tính và nhân được sinh khối từ rễ (Viện Sinh học Tây Nguyên, một số cơ sở khác ở Đà Lạt). Những năm gần đây, một số công ty ở Kon Tum đã và đang trồng đại trà, cần khai triển để có thể phát triển thành cây trồng phổ biến ở những vùng sinh thái na ná vùng Ngọc Linh – Kon Tum. Cây Alipat đã bước đầu có nghiên cứu. GS.TS Châu Văn Minh đã và đang tiến hành nghiên cứu. Cần điều tra, đánh giá trữ lượng, phân bố, các chỉ tiêu sinh thái, hình thái, thành phần hóa học của loài cây này. Tiến tới bảo tồn, phát triển và trở thành cây trồng dược chất có giá trị cho Đắk Nông và một số địa phương khác. (Còn tiếp) TS. Nguyễn Văn Lạng |