Nguyễn Vạn Phú Đúng là vàng lẽ ra không chiếm một vị trí trội như thời kì qua trong quản lý, điều hành cũng như trong tâm tưởng mọi người; đúng ra đã có thể có những giải pháp thay thế nhẹ nhõm hơn nhiều mà vẫn đạt được đích loại bỏ dần vàng ra khỏi hệ thống tiền tệ của nền kinh tế. Ngoài vàng, nền kinh tế đang có khối vấn đề cần quan tâm hơn nhiều. Điều đầu tiên phải khẳng định là sự xáo động do vàng gây ra nếu có là từ phía cơ quan quản lý với những chính sách bất nhất và sự tham gia của các ngân hàng vì động cơ lợi nhuận chứ đa phần người dân không có khả năng để đầu cơ hay thao túng giá. Sự bất nhất về chính sách (xem thêm bài Vàng dưới góc độ chính sách ) đã lôi kéo nhiều nhà băng vào cuộc chơi huy động vàng, bán lấy tiền đồng để kinh dinh chênh lệch lãi suất trong suốt 10 năm trời. Việc ngưng, rồi lại hoãn, rồi lại cho, rồi ngưng huy động vàng cứ lặp đi lặp lại nhiều lần, gây chây nhờn về mặt tuân thủ, nhất là khi các nhà băng làm theo lời kêu gọi và hẹn của ngân hàng Nhà nước (NHNN) vào cuối năm 2011.
Đúng ra NHNN đã có thể đưa ra một lộ trình rõ ràng, dứt khoát, không nhân nhượng về chuyện các ngân hàng phải tất toán vàng nhưng lịch trình phải khả thi, không gây sức ép lên thị trường. Lộ trình từng tuổi này nếu được công khai, các ngân hàng chủ động tuân và thông tin tuân thủ đến đâu cũng được công khai thì sẽ không còn chỗ cho đầu cơ, thao túng giá. Việc huy động vàng kéo dài cả một thập kỷ thì không việc gì chỉ có một cột mốc độc nhất, lại dời đi dời lại nhiều lần. Định ra các cột mốc tất toán dần dần được 20%, 50%, 70%... Hoàn toàn nằm trong tầm tay nhà quản lý. Nếu vàng cũng có vai trò như ngoại tệ thì nên nhớ cho đến nay, chúng ta đã chống được việc đô la hóa 100% đâu và đô la hóa, thành ra, vẫn còn có vai trò của nó trong một thời gian dài nữa. Một giác độ khác của sự nhất quán trong chính sách nằm ở chỗ, nếu NHNN đã hứa với các ngân hàng tham gia “bình ổn giá vàng” vào cuối năm 2011 là sẽ “xem xét cho phép nhập cảng vàng để bù đắp lượng vàng tồn quỹ đã chuyển đổi” thì nay cứ cấp giấy phép cho nhập khẩu vàng. Để các nhà băng không lợi dụng hưởng siêu lợi nhuận thì cứ đánh thuế du nhập 10-15% như Ấn Độ đang tiến hành (thuế suất 8%). Lúc đó ngân sách Nhà nước vẫn thu được khoản tiền chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới nhưng sẽ danh chính ngôn thuận hơn nhiều so với việc NHNN nhập vàng về độc quyền bán đấu giá. Cái lập luận NHNN bán đấu giá vàng nên chủ động thu về cho ngân sách chừng 5.000 tỉ đồng là không xác thực. Với bất kỳ mặt hàng nào trong nước không sản xuất được, chỉ cần ra lệnh cấm nhập, rồi giao cho một đơn vị độc quyền kinh dinh, độc quyền định giá thì tiền thu về cho ngân sách sẽ không biết bao lăm mà kể. Vấn đề là sự độc quyền như thế sẽ gây thiệt hại cho nền kinh tế như thế nào. Ngân hàng giả tỉ mua vàng giá cao nên bị thua lỗ, thay vì đóng thuế cao nay không đóng thuế thì rốt cục ngân sách cũng không lợi được thêm 5.000 tỉ đồng như chúng ta tưởng. Tiến hành như thời kì vừa qua, lợi đâu chưa rõ mà thiệt hại ít nhất về mặt tâm lý là rất rõ. Mọi tuyên bố cũng như lý giải của các quan chức quản lý đã tuần tự bị thị trường chứng minh ngược lại; công cuộc chống “vàng hóa” chưa được bao lăm thì sự “vàng hóa” tâm lý thị trường lại được tô đậm; giá vàng vẫn tác động lên tỷ giá ngoại tệ; tình hình đầu cơ vàng vẫn chưa biến mất; sự găm giữ vàng như một nơi trú ẩn an toàn cho tài sản người dân vẫn không giảm sút. Có một sự lúng túng thấy rõ, ít ra là về mặt giảng giải chính sách và công khai thông tin (chẳng hạn, hơn 1 triệu lượng vàng vừa qua nay đang ở đâu, không ai biết). Thị trường xoành xoạch có cách ứng xử của nó và tâm lý, nếp của người dân không thể đổi thay dễ dàng trong một sớm một chiều. Cách tốt nhất hiện thời là dần dần rút khỏi các biện pháp mang tính hành chính, trả các mối quan hệ về cho thị trường chi phối và trong lúc chuyển đổi, nên công khai thông báo để hạn chế việc lạm dụng như ai mua, mua bao nhiêu trong từng phiên đấu thầu vàng để thị trường thay mặt Nhà nước sẽ giám sát và làm lộ diện bất kỳ kẻ đầu cơ nào. |